Hội nghị cũng có sự tham gia của đại diện các đơn vị thuộc Tổng cục thủy sản, các chuyên gia, nhà nghiên cứu, đại diện các khu bảo tồn biển và các bên liên quan. Các vấn đề về hiện trạng, định hướng quản lý hệ thống khu bảo tồn biển, thách thức và giải pháp giữa phát triển kinh tế và bảo tồn biển đã được thảo luận tại hội nghị.
Theo thông tin tại Hội nghị, quản lý hệ thống các khu bảo tồn biển hiệu quả góp phần vào thực hiện mục tiêu Nghị quyết 36-NQ/TW về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến 2045. Theo đó, đến năm 2030 Việt Nam trở thành quốc gia biển mạnh, đạt cơ bản các tiêu chí về phát triển bền vững kinh tế biển; hình thành văn hoá sinh thái biển; chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu, nước biển dâng; ngăn chặn ô nhiễm, suy thoái môi trường biển, giảm thiểu tình trạng sạt lở bờ biển và xâm thực; phục hồi và bảo tồn các hệ sinh thái biển quan trọng. Bên cạnh đó, công tác quản lý hệ thống các khu bảo tồn biển cũng đòi hỏi chiến lược để vừa đảm bảo công tác bảo tồn biển, vừa phát triển kinh tế biển một cách hài hòa.
Mục tiêu phát triển của Liên hợp quốc về bảo tồn và sử dụng bền vững biển, đại dương và tài nguyên biển đã trở thành thước đo phát triển của các quốc gia. Trong bối cảnh đó, kinh tế biển xanh hiện đã được hầu hết các quốc gia công nhận là giải pháp phát triển bền vững biển và dần đưa thành yêu cầu bắt buộc trong chiến lược, chính sách phát triển.
Trong bối cảnh nhận thức về kinh tế biển xanh còn chưa đầy đủ, quy mô kinh tế biển còn nhỏ bé, cần phải đánh giá các “nguồn vốn tự nhiên biển, đảo”. Do vậy đầu tư vào kinh tế biển xanh không thể xa rời với việc đầu tư cho nguồn vốn thiên nhiên, cho các hệ sinh thái biển, là đầu tư cho việc thành lập và quản lý hiệu quả mạng lưới các khu bảo tồn biển.
Căn cứ vào Quy hoạch tổng thể hệ thống Khu bảo tồn biển Việt Nam đến 2015, tầm nhìn đến 2020, Việt Nam đã thành lập được 10 Khu bảo tồn biển và đang lập kế hoạch thành lập tiếp 06 khu nữa trong thời gian tới. Tuy nhiên, quản lý hệ thống khu bảo tồn biển đang gặp nhiều khó khăn, thách thức về cơ cấu quản lý, ngân sách, năng lực cán bộ, và cơ sở vật chất. Chính vì vậy về lâu dài, rất cần có định hướng để tăng cường hiệu quả quản lý hệ thống các khu bảo tồn biển tại Việt Nam.
Một số kinh nghiệm về phát triển kinh tế biển xanh thông qua quản lý hiệu quả mạng lưới các khu bảo tồn biển cũng được chia sẻ tại hội nghị. Dựa vào đó, các đại biểu cùng nhau thảo luận để đưa ra các giải pháp tăng cường hiệu quả quản lý cho hệ thống khu bảo tồn biển Việt Nam.
Trong thời gian tới, tổ chức IUCN sẽ tiếp tục phối hợp cùng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Tổng cục Thủy sản và các chuyên gia để triển khai các hoạt động hỗ trợ nâng cao hiệu quả quản lý hệ thống khu bảo tồn biển Việt Nam, góp phần phát triển bền vững kinh tế biển trên nền tảng tăng trưởng xanh.
Phát biểu tại Hội nghị, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Thủy sản Nguyễn Quang Hùng cho biết, biển Việt Nam nằm trong vùng có tính đa dạng sinh học khá cao, với hơn 11.000 loài sinh vật được phát hiện. Tính đa dạng về cảnh quan tự nhiên và nguồn lợi thủy sản là thế mạnh của Việt Nam trong phát triển ngành kinh tế biển nói chung và kinh tế thủy sản nói riêng và đặc biệt là thiết lập các khu bảo tồn biển. Năm 2018, tổng sản lượng thủy sản nước ta đạt khoảng 7,74 triệu tấn, kim ngạch xuất khẩu toàn ngành đạt 9 tỷ USD, góp phần quan trọng phát triển kinh tế đất nước, cải thiện sinh kế, ổn định đời sống người dân các tỉnh ven biển.
Tuy nhiên, ngành thủy sản Việt Nam cũng đang đối mặt với rất nhiều khó khăn từ sức ép kinh tế như phát triển du lịch biển, tình trạng khai thác thủy sản bất hợp pháp vẫn còn diễn ra, việc sử dụng chất nổ, xung điện, hóa chất cấm, chất độc, ngư cụ cấm để khai thác thủy sản, tình trạng ô nhiễm môi trường biển… Công tác bảo tồn biển gặp khó khăn nên đã trực tiếp hoặc gián tiếp làm suy giảm nhanh nguồn lợi thủy sản tự nhiên và suy thoái các hệ sinh thái biển.
Thảo luận tại hội nghị, các chuyên gia cho rằng, con số về số vụ vi phạm các quy định quản lý nhà nước liên quan đến công tác bảo tồn biển trên thực tế còn lớn hơn số vụ mà Tổng cục Thủy sản đưa ra. Đặc biệt, số vụ vi phạm tại một số khu bảo tồn biển đang có xu hướng tăng, các hoạt động trong khai thác, lặn bắt những loài hải sản nguy cấp quý hiếm ngay trong vòng nghiêm ngặt, tàu cá sử dụng các nghề lưới kéo, màng, ngư cụ có mắt lưới nhỏ, ngư cụ cấm, sử dụng chất nổ để khai thác trong và xung quanh các khu bảo tồn biển (nhất là trong phân khu nghiêm ngặt) vẫn diễn ra nhưng cơ quan chức năng không có chế tài để xử phạt.
Các khu bảo tồn biển chưa có lực lượng kiểm ngư, tuần tra phối hợp không hiệu quả nên tình hình vi phạm pháp luật vẫn diễn ra phổ biến, dẫn đến các loài giá trị cao như hải sâm, tôm hùm, bào ngư, trai tai tượng, cầu gai sọ dừa... bị suy giảm rất lớn, hậu quả càng nghiêm trọng khi thực tế các khu bảo tồn biển chưa có các hoạt động nghiên cứu phục hồi tái tạo các nguồn lợi hải sản.
Ông Jacob Brunner, đại diện Tổ chức IUCN cho rằng tại Việt Nam, khu vực bảo vệ bảo tồn biển nghiêm ngặt là rất nhỏ, khoảng dưới 1 % diện tích, trong khi đó theo tiêu chuẩn quốc tế là 30%. Điều này ảnh hưởng rất nhiều đến việc bảo tồn các loài sinh vật. Trong quá trình nghiên cứu, IUCN đã phát hiện một trong những yếu tố làm cản trở sự quản lý hiệu quả tài nguyên sinh vật biển không phải đều bắt nguồn từ sự thiếu thốn nguồn vốn hay cơ sở vật chất mà là do sự không đồng ý của cộng đồng dân cư. Có những cộng đồng người dân dù hiểu biết về bảo tồn biển nhưng vẫn không đồng ý tham gia khu bảo vệ nghiêm ngặt này. Nguyên nhân là do một số ngư dân đã mang tàu thuyền đến đánh bắt bất hợp pháp và chính quyền cũng chưa ráo riết ngăn chặn việc đánh bắt trái phép này.
|
Đại diện IUCN cũng khẳng định: “Tuy công tác bảo tồn biển gặp nhiều thách thức nhưng IUCN sẽ đồng hành cùng Việt Nam để thành lập những khu bảo tồn biển một cách hiệu quả. Hiện nay chúng tôi cũng hỗ trợ khu bảo tồn Cù Lao Chàm tăng diện tích từ 0,5% - 10%”.
Để bảo tồn có hiệu quả các khu bảo tồn biển, theo PGS.TS Nguyễn Chu Hồi, nhìn từ các điển hình Cù Lam Chàm, Hòn Mun, Vườn quốc gia Núi Chúa cho thấy cần nỗ lực cải thiện sinh kế cho cộng đồng dân cư sống trong và lân cận khu bảo tồn biển để họ tham gia chủ động hơn vào việc quản lý khu bảo tồn biển, ủng hộ ban quản lý trong thực hiện kế hoạch quản lý, góp phần giảm sức ép khai thác tài nguyên, nguồn lợi thủy sản.
Theo đó, “Để bảo tồn biển, phát triển nghề cá bền vững thì phải duy trì được nguồn vốn tự nhiên biển, bảo tồn biển, bảo vệ môi trường biển, phát triển kinh tế biển hiệu quả, thực hiệp pháp luật tốt, truyền thông giáo dục nâng cao nhận thức”, PGS.TS Nguyễn Chu Hồi cho biết.
Theo PGS.TS Võ Sĩ Tuấn, nguyên Viện trưởng Viện Hải dương học Nha Trang, phải có sự phát triển hài hòa giữa kinh tế và bảo tồn biển, kiểm soát tình trạng khai thác nguồn lợi quá mức, đồng thời phải tính đến sức tải của các hệ sinh thái du lịch. Việc cần làm là phải thiết lập các vùng không khai thác sử dụng thực sự trong các khu bảo tồn biển nhằm duy trì và bảo tồn các loài quý hiếm, duy trì tài nguyên cho khai thác thủy sản bền vững và hoạt động du lịch địa phương. Việc bảo vệ các bãi đẻ, ươm giống của các loài nguồn lợi cũng cần được coi trọng và thiết lập. Bên cạnh đó cần có cơ chế và biện pháp thực thi để doanh nghiệp và cộng đồng đồng quản lý và sử dụng tài nguyên.
Nhằm đạt được những kết quả tốt trong thiết lập, quản lý hệ thống khu bảo tồn biển thời gian tới, Bộ NN&PTNT yêu cầu các đơn vị liên quan triển khai thực hiện Luật Thủy sản 2017 và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật, đặc biệt là các nội dung liên quan đến quản lý khu bảo tồn biển; ưu tiên bố trí nguồn lực; bố trí lực lượng kiểm tra tại các khu bảo tồn để thực hiện tuần tra, kiểm soát, xử lý vi phạm; chỉ đạo các đơn vị liên quan phối hợp chặt chẽ với Ban quản lý khu bảo tồn biển tăng cường tuần tra, kiểm soát, xử lý vi phạm tại các khu bảo tồn biển; xử lý nghiêm các hành vi sử dụng xung điện, chất nổ, hóa chất cấm, chất độc, nghề, ngư cụ cấm sử dụng khai thác hải sản...
Thu Hiền